Friday, September 14, 2012

Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự (Kỳ 11) - Rạp chiếu bóng ở Hà Nội xưa

Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, Hà Nội vẫn chưa có rạp chiếu bóng. Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tại khách sạn Métropole người ta đã chiếu phim phục vụ khách nghỉ ngơi ở đây tại quầy Grand café.

< Quầy Grand café ở khách sạn Métropole là nơi chiếu phim đầu tiên ở Hà Nội.

Bộ phim được chiếu là phim câm Thần cọp và có thể khẳng định Grand café là “rạp” đầu tiên ở Hà Nội. Rạp chiếu bóng (thời đó người ta gọi rạp chiếu phim là rạp “chớp bóng”) theo đúng nghĩa đầu tiên ra đời ở Hà Nội là Pathé ở cạnh đền Bà Kiệu. Để có đất xây rạp, chủ rạp Aste người Pháp đã móc nối với Hội đồng thành phố phá một phần đền Bà Kiệu lấy mặt bằng xây rạp. Rạp lợp tôn, kê ghế gỗ, khánh thành ngày 10.8.1920. Pathé bị phá năm 1941 để dựng tấm bia tưởng niệm Alexandre de Rhodes.

Tiếp đó tới rạp Tonkinois ở phố Hàng Quạt, trước khi trở thành rạp chiếu phim, Tonkinois là nhà hát Năm Chăn chuyên diễn tuồng, chủ Tonkinois là anh chàng Tây lai lấy vợ Việt Nam. Gọi là nhà hát nhưng thực ra chỉ là mấy ngôi nhà tư rộng năm gian khi diễn tuồng thì dẹp đồ đạc, thu gom quần áo, khán giả quây xung quanh chiếc đèn treo ba dây.

< Tại phố Nguyễn Xí, có một cái cổng nhỏ đi vào một rạp chiếu phim lấy tên là Palace.

Rạp chiếu phim đầu tiên vào ngày 12.6.1921 và sau đó chuyên chiếu phim trinh thám, phiêu lưu nhiều tập, phim về chiến tranh. Năm 1930, Tonkinois đã cho chiếu phim có lồng tiếng Việt để khán giả hiểu được nội dung. Sau khi Hãng phim và chiếu bóng Đông Dương (Indochine Films et Cinéma - IFEC) thành lập, hãng này cũng bỏ tiền xây rạp. Rạp đầu tiên của họ khánh thành vào năm 1924 là Palace, sau đó là Family (ở phố Hàng Buồm).

Năm 1930, một công ty chiếu bóng nữa do người Pháp làm chủ đã ra đời ở Hà Nội để cạnh tranh với IFEC, đó là Societé des cinéthéâtre d’Indochine. Thấy chiếu bóng là ngành kinh doanh béo bở, một số Hoa kiều cũng bỏ vốn xây dựng, nhưng họ chỉ xây rạp nhỏ, thuê phim của người Pháp và một số ít phim Hồng Kông, Trung Quốc để chiếu.

< Nhà hát lớn lúc đang xây.

Trước năm 1930, mỗi rạp chỉ đặt một máy chiếu, khi hết cuốn, thợ chiếu thay cuộn mới để chiếu tiếp. Màn ảnh được làm bằng vải trắng xung quanh viền vải xanh thẫm hoặc đen. Sàn phòng chiếu bằng phẳng và màn ảnh được đặt trên cao nên xem xong phim ai cũng bị mỏi cổ. Khán giả ngồi trên những ghế tựa hoặc ghế băng có tựa lưng bằng gỗ nhưng có vài rạp không có ghế ngồi mà ngồi dưới sàn. Rạp này có hai hạng, xem mặt chính thì trả hai xu, xem mặt trái thì chỉ mất nửa tiền.

Rạp Hội Âm Nhạc (nay là Nhà hát múa rối nước Kim Đồng ở phố Đinh Tiên Hoàng) thì hai phần ba phía trên là ghế tựa còn lại phía dưới là ghế băng và giá vé rất rẻ nên thu hút rất đông học sinh con nhà nghèo vào xem. Cuối những năm 1930, một số rạp mới có ban công và sàn được làm dốc, các hàng ghế được bố trí lệch nhau. Một số rạp lắp quạt trần để giảm nóng bức trong mùa hè và phân chia thành bình dân, sang trọng.

Những bộ phim đầu tiên được trình chiếu ở Hà Nội đều là phim câm, cho đến khoảng giữa thập niên 1930, khán giả mới được xem phim nói với bộ phim đầu tiên là Phía Tây không có gì lạ. Nhưng khi đó, ngôn ngữ trong phim là tiếng Pháp nên chỉ những người biết tiếng mới hiểu được và để khắc phục tình trạng vắng khán giả, các rạp cho dịch ra tiếng Việt, thuê người thuyết minh.

Cũng trong thời gian này, chủ rạp nhận thấy Tết Nguyên đán là cơ hội vàng cho doanh thu nên họ nhập những phim hấp dẫn rồi cho quảng cáo trên băng rôn căng trên phố, dán áp phích ở cửa rạp, quảng cáo trên các báo. Bên trong rạp, họ còn treo câu đối chúc tết, có hoa đào, nhân viên tươi cười niềm nở. Đặc biệt, rạp Majestic (nay là rạp Tháng Tám trên phố Hàng Bài) khi chiếu phim Tarzan, họ còn đưa cả cây đã cắt ngọn vào góc rạp để tạo cảm giác giống như cánh rừng nhiệt đới. Đi đầu trong chiếu phim tết là hãng Cinéma Théâtre, và để không bị lép vế IFEC cũng phải chạy theo.

< Cinéma Palace - rạp chiếu bóng sang trọng nhất Hà Nội xưa.

Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, giao thông đường biển từ Pháp tới Việt Nam bị Đức và Nhật phong tỏa đã ảnh hưởng đến việc vận chuyển phim. Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp nắm quyền cai trị Đông Dương, bi quan trước tình hình kinh doanh, nhiều chủ rạp người Pháp đã bán lại rạp cho người Hoa. Để bù vào nguồn phim thiếu hụt từ Pháp, các chủ người Hoa đã nhập phim từ Hồng Kông.

Sau khi tiếp quản thủ đô năm 1954, chính quyền mới vẫn giữ nguyên các rạp và chỉ đến khi có chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh thì các rạp buộc phải thực hiện công tư hợp doanh vào năm 1959, rồi sau thành rạp nhà nước. Nguồn phim Mỹ, Pháp không còn nên miền Bắc nhập phim của Liên Xô, Đức, Ba Lan... Thời kỳ này khu vực nội thành Hà Nội gồm bốn khu Đống Đa, Hai Bà Trưng, Ba Đình và Hoàn Kiếm có thêm rạp chiếu do cải tạo lại các rạp hát. Nhiều nhất là khu Hoàn Kiếm với Tháng Tám, Kim Đồng (phố Hàng Bài), Bắc Đô (phố Hàng Giấy), Hòa Bình (trước là rạp Hội Âm nhạc ở phố Đinh Tiên Hoàng)...

< Hình ảnh về rạp cinéma cổ xưa nhất tại Việt Nam: Rạp Pathé do người Pháp xây dựng tại Hà Nội vào năm 1920.

Khu Ba Đình có rạp Đặng Dung. Khu Hai Bà Trưng có rạp Mê Linh (phố Lò Đúc), rạp Bạch Mai (phố Bạch Mai); Đống Đa có rạp Dân Chủ (phố Khâm Thiên), Đống Đa (phố Thái Thịnh). Tuy nhiên, Đống Đa không phải là rạp cũ, nó được xây dựng vào năm 1976. Các huyện ngoại thành có bãi chiếu bóng ngoài trời, Từ Liêm có bãi Cầu Giấy, Thanh Trì có bãi Mai Động, Gia Lâm có bãi Gia Lâm, riêng khu Đống Đa lại có bãi Khương Thượng. Mấy chục năm, các rạp chiếu phim ở Hà Nội chủ yếu dựa trên cơ sở vật chất sẵn có, ít được chú ý sửa chữa, nâng cấp. Không chỉ chất lượng âm thanh chưa bảo đảm, mà các công trình vệ sinh cũng kém, thậm chí có rạp giữa buổi chiếu quạt trần rơi xuống trúng đầu khán giả đang ngồi xem.

Tính đến năm 1927, cả nước Việt Nam có 33 rạp chiếu bóng, trong đó Hà Nội có 4 rạp, Hải Phòng 2 rạp, Huế 2 rạp, Chợ Lớn 4 rạp, Sài Gòn 4 rạp, Cần Thơ 2 rạp...
Năm năm sau, năm 1932, số rạp tăng lên nhanh chóng. Riêng Bắc kỳ có 27 rạp, Trung kỳ 11 rạp và Nam kỳ 13 rạp. Một số người Việt Nam bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh mới này và ở Hà Nội, nhà tư sản Vạn Xuân là người đầu tiên bỏ tiền xây rạp Olimpia (nay là Nhà hát Hồng Hà trên phố Hàng Da) vào năm 1936. Đến năm 1939, số lượng rạp chiếu phim tại Việt Nam lên tới 60.

Còn tiếp
Kỳ 1 - Kỳ 2 - Kỳ 3 - Kỳ 4 - Kỳ 5 - Kỳ 6 - Kỳ 7 - Kỳ 8 - Kỳ 9 - Kỳ 10 - Kỳ 11 - Kỳ 12

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Ngọc Tiến (Thanhnien), internet

Link to full article

Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự (Kỳ 10) - Thực hư "Kẻ cắp chợ Đồng Xuân"

Từ lâu trong dân gian lưu truyền câu nói "kẻ cắp chợ Đồng Xuân", với hàm ý chợ Đồng Xuân có rất nhiều kẻ cắp và có ý thán phục tài nghệ của kẻ cắp ở cái chợ lớn nhất Bắc Kỳ...

Sau khi trở thành nhượng địa của Pháp năm 1888, đốc lý   Landes Charles (nắm quyền từ 8.6.1899 đến 15.1.1890) ra quyết định xóa bỏ hai ngôi chợ cũ của Hà Nội vốn họp cạnh đền Bạch Mã và Cầu Đông, dồn tất cả về họp ở cái chợ nhỏ nằm trước cửa đền Huyền Thiên, thuộc phường Đồng Xuân. Năm 1889 có tên là chợ Mới, nhưng năm 1890 đổi thành  Đồng Xuân.

Ban đầu, chợ họp ngoài trời, diện tích chợ nhỏ rồi sau đó lan ra phố Hàng Khoai, Hàng Gạo. Tuy là chợ hàng ngày nhưng mỗi tháng có một phiên họp vào ngày đầu tháng âm lịch, chợ phiên đông đúc kẻ mua người bán hơn ngày thường do bà con các vùng ngoại thành mang bán các loại cây giống, súc vật giống như lợn, chó, mèo...

Vì số người mua bán quá đông nên chính quyền thành phố cho phép tràn sang khu đất mới lấp. Để bắt tất cả kẻ mua người bán phải vào chợ và không chiếm đường đi của các phố xung quanh, đồng thời không bỏ sót thuế, chính quyền cho quây xung quanh bằng rào tre với diện tích khoảng 10.000 mét vuông. Chợ Đồng Xuân ban đầu không có hàng lối, những người bán cùng mặt hàng tự ngồi gần nhau để dễ bán dễ mua. Thấy thuế chợ Đồng Xuân là nguồn thu lớn nhất cho ngân sách  nên Landes Charles quyết định nâng chợ phiên từ tháng một lần lên hai lần, đồng thời cho xây lại chợ.

Khung chợ đúc bằng gang chuyển từ Pháp sang và có năm bộ kèo, mỗi bộ dài 52 mét, cao 19 mét, mái lợp bằng tôn để che mưa che nắng. Năm 1892, trong kế hoạch xây dựng lại khu vực phố cổ để Hà Nội văn minh hơn, chính quyền thành phố đã cho xây tường ở mặt cổng ra vào và đến năm 1893 thì xây tường bao xung quanh. Vào chợ có ba lối, cổng chính là mặt phố Đồng Xuân hiện nay với ba cổng, cổng bên ở phố Hàng Khoai và một cổng ở phố Hàng Chiếu. Đồng Xuân trở thành chợ lớn nhất Bắc Kỳ vừa  bán lẻ vừa bán buôn cho người các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra.

Cuối thế kỷ XIX, chợ Đông Xuân không chỉ có các mặt hàng sản xuất trong nước mà chợ bán rất nhiều hàng hóa tiêu dùng nhập từ nước ngoài, trong đó có táo, lê nhập từ San Fransico (Mỹ), vải từ Anh, hàng tiêu dùng từ Pháp, Hồng Công và Thượng Hải (Trung Quốc), nên người ta bắt đầu chia thành từng dãy, đồng thời quy định cụ thể khu vực này bán hàng gì, khu vực kia bán hàng gì. Thẳng cổng chính là dãy bán vải, bên trái là bán hoa quả, kế đó là bán tạp hóa rồi đến các quầy bán thịt, rau, đồ sắt, ăn uống và có cả khu vực dành cho những người xem bói. Trong bài xẩm Vui nhất là chợ Đồng Xuân, người ta liệt kê ra rất cụ thể chuyện này:

...Vui nhất có chợ Đồng Xuân,
Mùa nào thức nấy xa gần xem mua.
Cổng giữa có chị bán dừa,
Hàng cau, hàng quít, hàng dưa, hàng hồng.
Ai ơi đứng lại mà trông,
Hàng vóc hàng nhiễu thong dong mượt mà.
Ngoài chợ có chị hàng hoa,
Có người đổi bạc đi ra đi vào.
Nào hàng bún nấu bán rao,
...

Đầu thế kỷ XX, rau quả từ Đà Lạt chuyển ra theo tàu hỏa, su hào, bắp cải từ Sapa chuyển về bằng ô tô và nhiều mặt hàng sản xuất từ Sài Gòn chuyển ra như xà phòng Cô Ba, nước hoa, rồi bàn chải, dầu nóng... Vì là chợ lớn, lại đầy đủ các mặt hàng nên sáng sáng đàn bà con gái người Pháp, Nhật, Ấn... và me Tây, muốn mua sắm cái gì đều phải lên Đồng Xuân.

Phục vụ cho những người bán hàng và mua hàng là những đội bâté (phu chuyên mang vác thuê), trong bộ sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn viết: “Các phường bâté này là trẻ em cả trai lẫn gái dưới 16 tuổi chuyên cắp rổ theo người đi chợ, họ mua cái gì thì bỏ vào rổ của chúng, sau khi mua đủ chúng sẽ mang ra xe cho họ và nhận tiền boa".

Phân biệt giữa phường này với phường kia là ở màu sắc cái rổ, nếu phường này sơn đen thì phường kia sẽ để nguyên màu ám khói. Do có nhiều phường bâté nên cạnh tranh diễn ra quyết liệt, để hạ uy tín của nhau, người của phường này lợi dụng chợ đông thò tay lấy cắp hàng trong rổ của phường kia và ngược lại. Dù nhiều người đi chợ yêu cầu trẻ cắp rổ theo mình cảnh giác nhưng hàng hóa vẫn bị mất, sự việc diễn ra quá nhiều và cảnh sát bốt Hàng Đậu bí mật theo dõi cũng không phát hiện được nên người đi chợ nói với nhau: “Đúng là kẻ cắp chợ Đông Xuân”. Dần dần câu nói đó loang ra khắp thành phố.

Trước khi trở thành người giàu có thì Công Tu Nghiệp (người làng Phú Gia, nay thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ) từng là trẻ phụ bán hàng ở quầy vải chợ Đồng Xuân hồi đầu thế kỷ XX. Vợ chồng một người Pháp thấy Nghiệp dễ thương nhận làm con nuôi và dạy cho nghề nấu ăn. Khi trưởng thành, Nghiệp xin ra ở riêng và mở cửa hàng, rồi từ đó mà thành đạt. Lúc ông còn sống, có người hỏi ông về chuyện kẻ cắp chợ Đồng Xuân, ông bảo chỉ có các phường bâté lấy của nhau.

Sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở Hà Nội vào tháng 7.1959, chợ Đồng Xuân không còn là cái “dạ dày” của Hà Nội, các phường bâté cũng bị giải tán, hàng hóa ít dần, vì thế chợ cũng vắng người... Sự thể “kẻ cắp chợ Đồng Xuân” có lẽ chỉ có thế!

Truyện ngắn Mất cái ví đăng trên Báo Nhật Tân số 3 ra ngày 16.3.1933 của nhà văn Nguyễn Công Hoan kể về chuyện ông Tham phàn nàn người cậu ruột ở quê ra chơi nhiều quá nên vờ kêu mất cái ví trong đó có 40 đồng. Ông Tham bảo cậu: “Hôm nay phiên chợ Đồng Xuân, mời cậu lên chơi cho biết chợ” với hàm ý cậu là kẻ lấy chiếc ví như đám kẻ cắp chợ Đồng Xuân.

Còn tiếp
Kỳ 1 - Kỳ 2 - Kỳ 3 - Kỳ 4 - Kỳ 5 - Kỳ 6 - Kỳ 7 - Kỳ 8 - Kỳ 9 - Kỳ 10 - Kỳ 11 - Kỳ 12

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Ngọc Tiến (Thanhnien), internet

Link to full article

Phan Thiết đẹp như mơ trong mắt khách du lịch.

Phan Thiết - vùng đất được thiên nhiên ưu đãi với những bãi biển xanh cuộn sóng, những cồn cát trắng trải rộng mênh mông, quyến rũ và đầy sức mê hoặc.

Tôi khởi hành chuyến đi của mình vào một buổi sớm tinh mơ khi những giọt sương còn đọng trên cành lá, ánh bình minh còn chưa ló dạng. Men theo đại lộ Đông Tây vi vu từng cơn gió thổi đã làm quên đi cái oi bức nắng nóng của Sài Gòn hoa lệ.

Xe rẽ tới đường hầm Thủ Thiêm vượt con sông Sài Gòn lớn ngút ngàn. Lòng hầm phát ra thứ âm thanh ồ ồ. Cứ như là giọng nói sang sảng oai vệ của ông lái đò trong thiên tùy bút "Người lái đò Sông Đà" của nhà văn Nguyễn Tuân, không hổ danh là một công trình quy mô lớn nhất Đông Nam Á.

< Tháp Chàm Po Sah Inư.

Bỏ lại căn hầm lớn sau lưng, xe bon bon trên con đường mới mở quận 2 ra tới xa lộ Hà Nội, đi thêm một quãng thì đến địa phận Đồng Nai. Dừng chân ở Trảng Bom tôi làm một tô phở nóng. No lòng rồi mới bắt đầu đi tiếp.

Tới Bình Thuận ngang qua những dãy đồi Bà Nài bạn đừng quên ghé thăm tháp chàm Po Sah Inư gắn liền với tên của vị công chúa tài hoa và xinh đẹp của vương quốc cổ chăm pa hay tạt qua Lầu Ông Hoàng một thời vang tiếng, ngôi biệt thự huy hoàng đã hoang phế theo thời gian nhưng vẫn còn đó một mối tình tuyệt đẹp.

< Lầu Ông Hoàng thấp thoáng xa xa.

Nơi in dấu chân của chàng thi nhân tài hoa Hàn Mặc Tử cùng nàng Mộng Cầm dạo bước nơi đây. Để lặng lòng lắng nghe từng câu thơ được chàng khắc họa với tất cả nỗi niềm thương nhớ:

"... Lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng
Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang.
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết..."

Hòn Rơm có hàng dừa cao mát rượi trĩu quả vươn mình in bóng trên mặt biển xanh. Ánh chiều dương tà tà rũ xuống phố thị đèn hoa rực rỡ.

Nếu bạn nghĩ đêm ở các khách sạn resort quanh biển hãy dành một chút thời gian để dạo bước ngắm nhìn cảnh biển về đêm. Thấp thoáng xa xa bạn sẽ thấy những đóm sáng đèn của những chiếc thuyền thúng bấp bênh bồng bềnh trên sóng nước nơi ngư dân chài lưới đang chăm chỉ làm việc.

Mặt trời đỏ từ từ nhô lên mặt biển, mang đến cho Phan Thiết một ngày mới bắt đầu. Tôi thức dậy thật sớm để lắng nghe hơi thở của một làng chài nhộn nhịp, để tìm hiểu xem cách họ buôn bán ra sao? Những chiếc thuyền thúng đầy ắp ghẹ, cá, tôm sau một đêm đánh bắt ngoài khơi đang lần lượt tấp vào bờ buôn bán hải sản náo nhiệt.

Lẫn trong tiếng kì kèo qua lại giữa kẻ bán người mua vẫn còn đâu đó một vài người đang chờ đợi những chiếc thuyền sau cập bến. Bạn có thể mua chúng theo dạng: thau đầy ắp cá tươi hay cân kí cá đem về tùy theo thỏa thuận.

Tôi đi cùng người bà con ở Phan Thiết ăn cơm tấm xứ biển nhưng đặc biệt ở chỗ nước mắm nơi đây họ lại làm ngọt gắt. Khi ăn vào cứ như ta đang uống nước ngọt vậy. Tôi có thắc mắc hỏi thì được cô chị họ giải thích rằng: "vì dân quanh vùng suốt ngày gắn với biển nên cái mặn nó thấm vào người lâu rồi, thành ra đồ ăn thì mới làm ngọt như vậy."

Sau bữa cơm sáng đặc biệt tôi theo chị đến Trường Dục Thanh nằm trên con đường Trưng Nhị, thành phố Phan Thiết - một nơi lưu dấu ấn của vị lãnh tụ tài ba đã từng dạy học và gắn bó với vùng biển miền Trung đầy nắng gió. Chị nói: "Nhắc đến Bình Thuận là nhắc đến cồn cát đẹp như tranh, nhắc đến Dục Thanh, Kê Gà, Tà Kú là nhắc tới những địa danh đã đi vào tâm khảm của người dân Bình Thuận".

< Đoạn đầu vào Suối Tiên.

Chị dẫn tôi đến Mũi Né thăm Suối Tiên Phan Thiết. Quang cảnh nơi đây vẫn còn hoang sơ, hùng vĩ và đầy thơ mộng mà thiên nhiên đã dành riêng cho nơi này.

Những bụi cỏ dại mọc ven dòng suối nhỏ dẫn lối ta như lời kêu gọi: "Hãy đến khám phá nơi đây!". Nóng lòng muốn biết theo sau là gì cũng đã thôi thúc làm cho tôi càng tò mò nhiều hơn. Đến Suối Tiên tốt nhất bạn nên tự khám phá một mình theo sở thích cá nhân của mỗi chúng ta.

Còn nếu bạn muốn tìm người hướng dẫn tận tình để biết nhiều hơn về nơi bạn đang tới thì ngay phía trước con đường vào suối đã có một đám em nhỏ người địa phương đang đứng chào mời với giá 10 đô cho khách nước ngoài hoặc tầm tối đa 50 ngàn với du khách nội địa như chúng ta.

Hôm tôi đến Suối Tiên có rất nhiều khách du lịch là người nước ngoài đến xem rất đông. Vì thế mà cũng không có gì ngạc nhiên khi mỗi du khách đều có một em người việt đi kèm.

Ai tới đây đều cũng phải cởi dép để men theo dòng suối nhỏ mát lạnh khoan khoái được chảy ra từ những mạch nước ngầm trong lòng núi. Suối Tiên càng đi sâu vào bạn sẽ càng cảm nhận được cái đẹp mà du khách thường ví von là "Suối Bồng Lai Tiên Cảnh".

Các dãy núi trùng trùng điệp điệp san sát nhau hòa quyện với những gam màu trắng, vàng, nâu, đỏ. Tất cả lai tạo nên một hình ảnh khiến cho ta cứ liên tưởng không ngừng đến những sắc tộc màu da trên thế giới cũng giống với màu cát nơi này.

< Chợ hải sản trên bãi biển.

Chúng không có sự phân biệt nhau mà chỉ gắn chặt một tình anh em thắm thiết đậm đà. Ánh xanh phản chiếu của hàng cây hoang dã đối diện xào xạc theo từng đợt gió thổi mướt lay động khiến trái tim của mỗi một du khách cũng phải bồi hồi xao xuyến. Chiều hoàng hôn ngả bóng lại càng tạo nên cho Suối Tiên thêm huyền bí chất chứa bao điều lạ lẫm và thú vị.

Phan Thiết đã làm say mê biết bao nhiêu du khách thập phương. Chỉ cần một lần ghé nơi đây, phong cảnh hữu tình của những bãi cát mịn hòa theo sóng biển cùng hàng phi lao nghiêng bóng trải dài và sự thân thiện, hiếu khách của người dân địa phương cũng đủ để khiến bạn luôn mong muốn sẽ quay lại Phan Thiết thật nhiều lần hơn nữa.

Du lịch, GO! - Theo Yume

ĐGD: Có lẽ tít "Mũi Né đẹp như mơ..." sẽ chuẩn xác hơn vì trong bài đề cập nhiều đến nơi này. Mình bổ xung thêm bản đồ ẩm thực Phan Thiết vào để các bạn có thể tham khảo thêm.

< Bản đồ ẩm thực tại Phan Thiết. bạn nhấn open new tab để xem kích cỡ lớn hơn.

Link to full article

Một lần đến với Ghềnh đá Hòa Thắng

Nhắc đến Phú Yên chúng ta thường nhắc đền ghềnh đá dĩa nhưng hôm nay tôi sẽ dẫn bạn đến với một nơi cũng mang tên là “ghềnh đá” nhưng nó nằm giữa một vùng đồng bằng trù phú, giữa những cánh đồng lúa xanh ngắt một màu, đó là ghềnh đá ở xã Hòa Thằng huyện Phú Hòa tỉnh Phú Yên.

< Ghềnh đá trông như một bức trường thành che chắn cho những đồng lúa xanh tươi.

Từ trung tâm thành phố Tuy Hòa, theo quốc lộ 25 về hướng tây khoảng 8km, băng qua những cánh đồng bao la trù phú, bạn sẽ tới một điểm tham quan dân dã rất lạ. Đó là một ghềnh đá trải dài tới gần 1km ở xã Hòa Thắng, huyện Phú Hòa. Do địa tầng biến đổi, trải qua bao nhiêu thế kỷ “biển sâu hóa thành nương dâu”, đã hình thành nên những vạt đá răng cưa kỳ thú.

< Một phần của ghềnh đá trong nắng sớm mai.

Cách đây hàng triệu năm, khi đó nước biển còn dâng cao nên đã tao nên ghềnh đá, sau khi biển rút ra xa thì ghềnh đá đã dần hình thành với dáng vẻ ngày nay, không quá to lớn đồ sộ, không quá cao nhưng nó cũng đủ làm ta choáng ngộp trước vẻ đẹp của nó.

Ghềnh đá như sống lưng của con khủng long hóa thạch, những rìa đá, cột đá vươn cao giữa nền trời xanh, tạo nên thành trì vững chắc bao quanh những cánh đồng lúa mênh mông của thôn Mỹ Hòa.

Trông kỹ, ghềnh đá như một hòn non bộ khổng lồ nằm giữa những đồng ruộng xanh mướt. Thời gian ngắm ghềnh đá đẹp nhất là lúc bình minh, khi mà không khí còn hơi sương, ghềnh đá hiện lên thật đẹp, thật huyền ảo.

Chúng ta có thể leo lên đến nơi cao nhất của ghềnh đá để ngắm cảnh, đứng trên nơi cao nhất ta có thể ngắm cả một vùng trời bao la, đường chân trời là những dãy núi trùng điệp, bên dưới là những cánh đồng bạt ngàn, xa xa là ngọn Chóp Chày, ngọn núi ở phía Bắc của thành phố Tuy Hòa.

< Xa xa là ngọn núi Chóp Chài ở thành phố Tuy Hòa.

Hòa Thắng còn có những ghềnh đá khác như: ghềnh Miễu, ghềnh Quan, ghềnh Dung, ghềnh Quýt, ghềnh Bồ, ghềnh Đuôi, ghềnh Do… với cấu tạo địa chất là các loại đá thạch anh như màu ám khói, màu sỏi, trắng đục hay tinh khiết. Trèo lên những mỏm đá cao, nhìn bao quát khắp một vùng xung quanh, du khách sẽ cảm nhận ghềnh đá Hòa Thắng không chỉ đẹp hùng vĩ, mà còn đằm thắm, dung dị với cánh đồng lúa êm đềm bên những rặng tre, làng xóm bình yên, lơ thơ làn khói bếp.

Hãy một lần đến với Ghềnh đá dù chỉ vài giờ để cảm nhận được nét thanh bình của miền quê này, để cảm nhận cái không khí trong lành nơi đây.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ báo Hải Quan, Xinh Xinh

Link to full article

Nướng cá thu ở biển Cửa Lò

Người dân một số địa phương ở thị xã Cửa Lò, Nghệ An hình thành được nghề nướng cá thu. Đây được coi là nét độc đáo, góp phần làm hấp dẫn thêm cho du lịch biển Cửa Lò.

Từ nhiều năm nay, các gia đình ngư dân ở khối Hải Giang 2, phường Nghi Hải, thị xã Cửa Lò mở ra nghề nướng cá thu. Lúc đầu chỉ một vài hộ tham gia, nhưng đến nay trên địa bàn phường đã có trên 50 hộ làm nghề. Nhiều gia đình ở phường Nghi Hải cho biết, lúc đầu chỉ nghỉ đơn giản, nhà ở gần cảng cá Cửa Hội và gần chợ Mai Trang là chợ cá lớn của tỉnh Nghệ An, có điều kiện mua bán, tiếp xúc nhiều với các loại cá, trong đó có cá thu nên các gia đình thường mua cá về nướng với mục đích để giữ cá được tươi ngon, không ươn, dùng để sử dụng lâu dài cho gia đình.

Về sau, nhiều người dân ở các địa phương khác, trong đó có cả khách du lịch khi đến Cửa Lò đã tìm đến để hỏi về cách nướng cá cũng như muốn  tận mắt chứng kiến cách nướng cá của người dân ven biển nên cũng từ đó nghề nướng cá trên địa bàn phường phát triển.

Giờ đây, nghề nướng cá không chỉ có ở phường Nghi Hải mà còn xuất hiện ở nhiều phường khác ở thị xã Cửa Lò. Lúc này, nướng cá thu đã trở thành một nghề không chỉ mang lại thu nhập cho các hộ nướng cá mà đang trở thành một nét đẹp độc đáo, hấp dẫn du khách khi đến với biển Cửa Lò. Đối với du khách khi đến Cửa Lò, thực đơn trong các bữa ăn, món không thể thiếu đó là cá thu nướng, đặc biệt hấp dẫn là món đầu, đuôi cá thu nướng. Nhiều du khách coi đây là món ăn ẩm thực độc đáo ở vùng biển xứ Nghệ, ăn một lần để rồi nhớ mãi.

Cá thu nướng là món ăn ngon, bổ, so với các món ăn biển khác thì đây cũng là món ăn có giá cả vừa phải, không quá cao nên bất cứ du khách nào cũng có điều kiện để thưởng thức nếu muốn. Không chỉ thưởng thức cá thu nướng, nhiều du khách khi đến với biển Cửa Lò còn tự tìm đến các “làng nghề” nướng cá, tự tay chọn cá thu tươi nguyên và đặt cho các hộ dân nướng, còn mình chứng kiến từ đầu đến cuối cả quy trình nướng.

Tham quan các làng chài ven biển, tận mắt chứng kiến cuộc sống của người dân ven biển, trong đó có nghề nướng cá thu cũng là một nét đẹp, độc đáo, hấp dẫn du khách; nhiều du khách khi đến Cửa Lò không bỏ lỡ cơ hội để được đến xem nghề nướng cá. Bà Nguyễn Hải Vân- người nướng cá thu ở phường Thu Thủy, thị xã Cửa Lò cho biết : “Cái quan trọng của nghề nướng cá thu là phải giữ được chữ tín, trong đó quan trọng nhất là chất lượng cá trước lúc đưa vào nướng phải tươi, ngon, không ươn, cá nướng lên nhìn phải bắt mắt, ăn phải thơm ngon”.

Để chọn được cá tươi, ngon, ngay từ sáng sớm hàng ngày, các hộ nướng cá đã phải đến các bến cá, chờ tàu khai thác thủy sản về để chọn mua cá tại gốc. Người dân vùng biển nhìn cá là biết con nào tươi ngon, con nào không để chọn mua, không vì ham rẻ mà chọn những con cá có chất lượng kém hoặc cá trôi nổi trên thị trường. Đối với người dân ven biển Cửa Lò, nghề nướng cá cũng có những “bí quyết” riêng để cá nướng lên không quá cháy, thịt cá chín đều, vẫn giữ được mùi vị thơm ngon.

Hiện nay, các hộ nướng cá thu đã trở nên “chuyên nghiệp” hơn trong cách nướng và cách phục vụ du khách. Các nhà hàng, khách sạn ở Cửa Lò khi cần, chỉ cần điện thoại đặt trước là các hộ nướng cá thu cho người đem đến tận nơi để phục vụ du khách. Khi đặt mua cá thu nướng ở Của Lò, du khách hoàn toàn yên tâm không lo mua dùng phải loại cá kém chất lượng hoặc không đạt số kg đặt mua.

Không chỉ là món ăn trong thực đơn đi biển, du khách còn có thể đặt mua cá thu nướng đem về. Tùy theo số lượng và nhu cầu đặt mua con to, con nhỏ của du khách, sau khi nướng xong cá, người nướng cá gói ghém, bỏ vào thùng xốp cẩn thận cho du khách, bảo đảm khi vận chuyển cách xa hàng trăm km, đi đường xa trong một vài ngày, cá vẫn tươi nguyên, không bốc mùi, khi ăn vẫn thấy cá thơm ngon, giữ được mùi vị như khi ăn tại nơi mua.

Tiếng lành đồn xa, món cá thu nướng hấp dẫn không chỉ du khách trong nước khi đến với biển Cửa Lò mà còn đối với khách du lịch đến từ Lào. Do vị trí địa lý cách không xa Lào, lại là vùng biển hấp dân nên từ nhiều năm nay Cửa Lò là một trong những địa phương ven biển được nhiều du khách Lào chọn làm nơi nghỉ mát. Anh Bun Lửa Xin, phóng viên của Thông tấn xã Lào (KPL) là người có nhiều lần đến Cửa Lò cho biết: “Nhiều du khách của Lào khi từ biển Cửa Lò về nước thường mua cá thu nướng để cho gia đình dùng trong bữa ăn hàng ngày hoặc làm quà gửi tặng bạn bè, người thân”. Anh cũng đã nhiều lần "săn" được nhiều tấm ảnh đẹp về nghề nướng cá thu ở Cửa Lò.

Cửa Lò đã và đang trở thành khu du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Trong xu thế đô thị hóa thì những nét đẹp dân dã, bình dân của người dân ven biển, trong đó có nghề nướng cá thu vẫn giữ được những nét độc đáo, mang đậm bản sắc riêng của người dân vùng biển. Những nét độc đáo này đang góp phần quan trọng làm cho diện mạo du lịch biển Cửa Lò thêm nhiều “màu sắc” để rồi hấp dẫn, thu hút du khách.

Lãnh đạo UBND Thị xã Cửa Lò cũng cho biết, luôn khuyến khích, tạo điều kiện để người dân phát triển, giữ vững được các ‘thương hiệu” cũng như các nghề truyền thống liên quan đến biển. “Thương hiệu” cá thu nướng Cửa Lò sẽ mãi vươn xa, luôn cố gắng giữ được chữ tín để hấp dẫn du khách bốn phương khi đến với vùng biển hấp dẫn, độc đáo bậc nhất xứ Nghệ này.

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Văn Nhật (bao Haiquan), internet

Link to full article

Thursday, September 13, 2012

Bạn trẻ dễ gặp nguy hiểm khi đi 'phượt'

Trong một chuyến phượt chinh phục cực Đông của Việt Nam, vì quá đuối sức, lại thiếu hụt dinh dưỡng nhiều ngày, cô gái có nick name Hanamichi đã giã từ cuộc sống. Sự ra đi của cô để lại bao nuối tiếc lẫn lo lắng cho những người ở lại, nhất là những ai trót đam mê loại hình du lịch phiêu lưu này.

Đi phượt đang trở thành trào lưu phổ biến trong giới trẻ Việt Nam, nhằm tìm cảm giác mạnh, giải thoát tinh thần, khám phá khả năng sinh tồn của bản thân bằng cách “hành xác” trong những chuyến đi xa. Không giống với tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng... phượt cuốn hút giới trẻ bởi đây là một hình thức khám phá mạo hiểm, những nơi thâm sơn cùng cốc mà không xác định trước lộ trình, thời gian... bằng mọi phương tiện: đi bộ, xe máy, ôtô, thuyền bè… Có thể đi phượt một mình hoặc đi nhóm.

Yếu đừng ra gió

Tháng 9/2010, cũng trong một chuyến đi phượt bằng xe gắn máy từ Lào Cai sang Lai Châu, đoàn dừng lại ở dòng suối Chăn để chụp ảnh, cô gái Nguyễn Thu Hiền (sinh năm 1983, Thái Bình) không may trượt chân ngã xuống suối và bị nước cuốn trôi. Người bạn cùng đoàn là Nguyễn Khánh Nguyên (sinh năm 1982, Hải Phòng) nhảy xuống cứu. Dòng nước quá xiết đã nhấn chìm cả hai.

Thi thoảng báo chí lại đưa tin những cái chết trên các cung đường khó. Nhưng tự mình chinh phục những vùng đất mới, món ngon địa phương cộng với những trải nghiệm sau một chặng đường gian lao đem lại nhiều kiến thức văn hoá vùng miền bổ ích, là lý do vì sao nhiều người trẻ yêu thích những chuyến đi phượt đến vùng đất lạ. Tuy nhiên, đây là loại du lịch đặc biệt, không kém phần mạo hiểm, đòi hỏi sức khoẻ đủ dẻo dai để chịu đựng được những cú va chạm trên các cung đường xấu, trong thời tiết khắc nghiệt...

Theo PGS Nguyễn Hoài Nam, chủ tịch hội Tĩnh mạch học TPHCM: “Đa số dân phượt đều sử dụng xe gắn máy để di chuyển liên tục qua những đoạn đường cheo leo, nguy hiểm. Vì vậy, chỉ những người trẻ, mạnh khoẻ thì mới có thể theo nổi. Nhưng dù khoẻ mạnh đến đâu, cũng nên luyện tập thể dục thường xuyên trước đó cả tháng, chú ý các môn chạy bộ, bơi lội. Không nên liều đi một mình bằng xe gắn máy, mà phải lập hành trình chuyến đi, cùng một nhóm người, đoàn thể. Một điều mà ít ai chú ý là việc kiểm tra sức khoẻ. Các thành viên trong đoàn cần có bước khám sức khoẻ tổng quát, đặc biệt là khám tim mạch nhằm phát hiện những bất thường của cơ thể không phù hợp với hình thái du lịch này. Trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, và những ai có bệnh lý về tim mạch, hen suyễn, suy dinh dưỡng, bệnh mạn tính... không nên theo đuổi đam mê này”.

Ngoài những chặng đường giằng xóc, lầy lội, khí hậu vùng đất bạn đặt chân đến có thể khắc nghiệt: mưa nhiều, độ ẩm cao hoặc nắng nóng, khô hạn. Với những vùng núi cao, bạn phải đối mặt với các chứng bệnh do không khí loãng, lượng ôxy thấp, giá lạnh... Vì vậy, cần nắm rõ tình hình thời tiết vùng đất định đến để kịp thời trang bị đồ chống rét và các hành trang cần thiết.

Cũng theo lời khuyên của bác sĩ Hoài Nam, phải mang theo hộp sơ cứu bao gồm các loại thuốc thông thường như kháng sinh, hạ sốt, giảm đau, tiêu chảy, ho, thuốc chống dị ứng, bông băng các loại, đặc biệt là phải có cuộn băng thun để băng ép vết thương khi gặp nạn. Quần áo phải gọn nhẹ, thoải mái, chọn giày thể thao để tiện di chuyển liên tục.

Ngoài ra, cũng cần chọn thời điểm thích hợp để lên đường. Nên xuất phát vào sáng sớm, nghỉ ngơi khi ánh nắng gay gắt. Đi vào mùa hè sẽ tiện lợi và ít gặp sự cố hơn mùa mưa. Mặc dù phải di chuyển liên tục cho kịp lộ trình, bạn cũng phải phân bố thời gian nghỉ ngơi và di chuyển sao cho nhịp nhàng, cân bằng thể chất.

Bạn cần học một khoá sơ cứu tại các trung tâm y tế để có thể tự cứu mình và bạn đồng hành nếu không may bị bong gân, chấn thương nhẹ, côn trùng cắn đốt. Giữa đường, chẳng may sức khoẻ có vấn đề, tốt nhất bạn nên dừng lại tại một trung tâm y tế địa phương để điều trị, sau đó tuỳ thuộc tình trạng thể chất mà tiếp tục hành trình hoặc trở về. Hãy biết dừng lại đúng lúc. Còn nhiều chuyến đi thú vị chờ bạn lần sau, nhưng một khi sức khoẻ suy sụp, nếu cứ chủ quan bạn sẽ trả giá đắt!

Dinh dưỡng trên từng chặng đường

TS Trần Thị Minh Hạnh, phó giám đốc trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM đưa ra lời khuyên: “Nếu bạn đang trong quá trình ăn kiêng, hoặc cơ thể có vấn đề về dinh dưỡng thì không nên dấn thân vào một chuyến mạo hiểm”. Vấn đề dinh dưỡng vô cùng cần thiết vì có khi chúng ta đi ở vùng không có hàng quán, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được bảo đảm. Nên bỏ theo balô các thức ăn nhẹ nhưng giàu dinh dưỡng như sữa, bánh mì, bánh ngọt và các thức ăn khô. Nên tìm hiểu kỹ trước qua internet hoặc hỏi người đi trước những quán ăn địa phương ngon, an toàn.

Việc di chuyển liên tục và hoạt động dưới thời tiết khắc nghiệt sẽ khiến cơ thể mất nhiều nước hơn bình thường, vì vậy, bạn phải luôn mang theo chai nước bên mình và bổ sung nước thường xuyên (đủ 2 lít mỗi ngày sẽ giúp cơ thể duy trì sức bền và không kiệt sức vì mất nước). Nên uống nước lọc, hạn chế các loại nước ngọt, nước đá. Bổ sung chất xơ rất quan trọng, nhưng không nên ăn rau sống tại hàng quán dọc đường, tốt nhất nên thay thế bằng các loại trái cây giàu vitamin, đặc biệt là vitamin C. Không ăn quá no gây khó di chuyển, tiêu hoá không tốt. Nên ăn nhiều lần vào những lúc nghỉ ngơi giữa những chặng đường.

Du lịch, GO! - Theo SGTT, internet

Link to full article

Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu


Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu thuộc huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, là khu rừng nguyên sinh ven biển duy nhất còn lại tương đối nguyên vẹn của Việt Nam. Nơi đây có tiềm năng du lịch rất lớn với nhiều dạng địa hình gồm cả đồi, núi, suối, hồ, biển và rừng.

Được thành lập từ năm 1978 với tên gọi “Khu rừng cấm Bình Châu” với mục đích bảo tồn nguồn gen, đa dạng sinh học, là nơi cung cấp, cư trú cho các loài sinh vật, đặc biệt là các loài quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng nằm trong Sách Đỏ Việt Nam và Danh lục Đỏ IUCN thế giới.

< Cây đỏ ngọn trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Đứng từ ngọn hải đăng Ba Kiềm cao nhất trên đỉnh núi, chúng tôi phóng tầm mắt ra bốn phía. Trước mặt là con đường ven biển cong hình lưỡi liềm đẹp mắt. Phía sau là ngút ngàn màu xanh của cây rừng trùng điệp trải dài trên ranh giới hành chính gồm 4 xã Bình Châu, Bưng Riềng, Bông Trang, Phước Thuận và thị trấn Phước Bửu.

< Hoạt động tuần tra, bảo vệ rừng của các cán bộ kiểm lâm trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Do địa hình tương đối bằng phẳng, thoai thoải đổ vào trung tâm nên tạo thành 4 vùng địa hình khác nhau. Vùng bằng phẳng chiếm diện tích 9.902 ha, trải rộng từ phía Bắc đến phía Nam.

< Cây Dầu Lông, loài gổ rừng thường thấy trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Ở phía Tây có một vài ngọn núi cao từ 100 đến 150 mét và những quả đồi thoai thoải xen lẫn với những bàu nước ngọt tự nhiên. Tổng diện tích của vùng có địa hình đồi khoảng 350 ha. Vùng cồn cát ven biển có diện tích khoảng 940 ha, chạy dọc trên 17 cây số bờ biển. Vùng bưng bàu, hồ nước diện tích khoảng 200 ha, nằm rải rác trong Khu bảo tồn.

< Lá cây nắp ấm, một loài thực vật bắt mồi côn trùng nhiệt đới trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Khu bảo tồn thiên nhiên này được xếp vào “Kiểu thực vật rừng kín, nửa rụng lá ẩm nhiệt đới”. Các dạng địa hình khác nhau đã tạo cảnh quan sinh động, đa dạng gồm: đồi, núi, suối, hồ, biển và rừng, tạo thành nơi cư trú rất đa dạng cho các loài động, thực vật…

< Chim Phướn trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Với diện tích 11.293 ha, rừng Bình Châu-Phước Bửu có thảm thực vật nguyên sinh vô cùng phong phú, gồm: 113 họ, 408 chi, 661 loài, trong đó có nhiều loài rất quý hiếm như: Cẩm lai Bà Rịa, Gõ đỏ, Gõ mật, Kơ nia, Giáng hương, Bình linh nghệ, Sơn đào... Động vật cũng rất đa dạng, có 70 họ, 29 bộ, 178 loài, trong đó 106 loài chim, 43 loài bò sát, 12 loài lưỡng cư, 51 loài thú… Hiện nay, có nhiều loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và thế giới như: Gà lôi vằn, Bồ câu nâu, Cú lợn rừng, Yến núi.

< Nhện lông trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu-Phước Bửu có nhiều tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, cộng đồng… Giữa ngút ngàn rừng nguyên sinh nổi lên một bàu nước nóng hơn 70 điểm phun lộ thiên có mạch nước nóng hoạt động rộng gần 1 km2.

< Chim hút mật đỏ trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Hơi nước bốc lên tạo một nồi xông hơi thiên nhiên khổng lồ. Nước ở đây có nhiệt độ từ 40ºC đến 64ºC rất phù hợp để chữa bệnh. Khu du lịch suối khoáng nóng Bình Châu nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu-Phước Bửu, được tổ chức du lịch thế giới chính thức công nhận là một trong 65 khu du lịch sinh thái bền vững của 47 quốc gia trên toàn thế giới.

< Chim Bắp Chuối mỏ dài trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Với dải rừng nguyên sinh, những bàu nước, những đỉnh núi như Hồ linh, Tầm Bồ, núi Mộ Ông, Hồng Nhung… hoang sơ, bí ẩn, đang chờ sự trải nghiệm của du khách với những chuyến đi về rừng. Vườn sưu tập cây gỗ rừng có diện tích 50,8 ha phân bố trong Khu Bảo tồn đã được định danh và gắn bảng tên cây. Khu cứu hộ động vật có diện tích 8 ha, hiện đang có một số loài thú móng guốc như: hươu sao, nai, khỉ, heo rừng, nhím và một số loài thú khác.

< Nai rừng trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Đây là điểm đến thú vị nếu bạn muốn khám phá hệ động, thực vật. Bạn cũng có thể ngồi thuyền dạo quanh khu rừng tràm tự nhiên rất đẹp với hệ sinh thái đất ngập nước để tận hưởng cái cảm giác trong lành, sảng khoái và thú vui câu cá nơi đây.

< Rắn lục mép trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Do nằm ven theo bờ biển nên Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bình Châu-Phước Bửu đang phát triển Khu dịch vụ và du lịch ven biển. Bãi biển Hồ Cốc dọc theo con đường ven biển với bãi cát dài và sạch đẹp, nước biển trong xanh, sóng êm dịu và an toàn là bãi tắm lý tưởng cho mọi người vào những ngày nghỉ cuối tuần.

< Sóc chân vàng trong Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu.

Rời Khu bảo tồn Thiên nhiên Bình Châu-Phước Bửu trong cái nắng chiều đang ngả qua từng chiếc lá, chúng tôi vẫn cảm thấy nuối tiếc khi chưa thể đặt chân đến hết những nơi mà anh Nguyễn Bá Xuân, một cán bộ trẻ của Khu bảo tồn giới thiệu. Anh háo hức kể cho chúng tôi nghe về các dự án phát triển Khu Bảo tồn đang thực hiện như: Xây dựng vườn lan rừng tự nhiên để bảo tồn các loại lan rừng quý hiếm, kết hợp tham quan, nghiên cứu; Mở các tuyến xuyên rừng giới thiệu về tài nguyên động - thực vật rừng kết hợp nghỉ dưỡng, chữa bệnh suối nước nóng Bình Châu…

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Oanh, Nguyễn Luân (Vnanet)

Link to full article